Ở Hoa Kỳ Tiền_lệ_pháp

Nhà nước Hoa Kỳ được tổ chức theo thể thức liên bang, pháp luật ở từng bang có thể khác nhau. Tuy nhiên, nếu xét về truyền thống và các phương pháp pháp lý, hầu hết các hệ thống pháp luật trên thế giới đều thuộc một trong một số ít truyền thống pháp luật và truyền thống pháp luật Mỹ thuộc hệ thống luật thông lệ (ngoại trừ bang Louisiana do ảnh hưởng của Pháp nên theo truyền thống dân luật, cũng tương tự như Québec của Canada). Do Hoa Kỳ giành độc lập sớm (1776) nên luật thông lệ tại đây phát triển tách biệt với Luật thông lệ ở Anh quốc và các nước thuộc Khối Thịnh vượng Anh. Mặc dù có thời gian dài "tách biệt về mặt pháp lý", pháp luật Hoa Kỳ vẫn có rất nhiều điểm chung với pháp luật của các nước khác theo luật thông lệ.[38]

Công việc hàng ngày của các Tòa án trên toàn nước Mỹ là đưa ra các quyết định ảnh hưởng đến số phận của hàng ngàn người. Một số quyết định chỉ ảnh hưởng đến các bên liên quan trực tiếp đến một hành vi pháp lý nào đó, nhưng nhiều quyết định đưa ra các phán quyết về quyền, lợi ích và nguyên tắc pháp lý tác động đến hầu như tất cả người dân Mỹ. Do đó, mỗi một phán quyết chắc chắn sẽ được nhiều người Mỹ chào đón, trong khi lại bị nhiều người khác phản đối và đôi khi số người phản đối còn nhiều hơn số người ủng hộ.

Tuy nhiên, tất cả đều phải thừa nhận tính pháp lý của các quyết định này, cũng như phải thừa nhận vai trò của tòa án - là người giải thích luật pháp cuối cùng. Người Mỹ không còn tranh cãi về vấn đề pháp chế và đã tin tưởng vào hệ thống luật pháp Hoa Kỳ. Cũng như các ngành khác, quyền của ngành tư pháp Hoa Kỳ được quy định trong Hiến pháp. Hiến pháp chỉ quy định thẩm quyền xét xử liên bang trong một số loại tranh chấp nhất định.[62] Hai loại tranh chấp quan trọng nhất là các vụ việc liên quan đến nghi vấn luật liên bang ("Tất cả các vụ việc về luật và công bằng, phát sinh từ Hiến pháp, các đạo luật của Hợp chúng quốc và các hiệp ước đã ký kết...") và các vụ việc "đa chủng", tức là các vụ tranh chấp giữa công dân của hai bang khác nhau. Thẩm quyền xét xử này cho phép mỗi bên có thể tránh đưa vấn đề ra trước các tòa án của bang của nhau. Quyền xét xử thứ hai (xét xử tranh chấp "đa chủng") xuất hiện trong những năm đầu của nền cộng hòa. Như giải thích trong Chương 2, phán quyết của Tòa án tối cao Hoa Kỳ trong vụ Marbury kiện Madison (1803) đã giải thích thẩm quyền (được Hiến pháp ủy quyền) của nó là được phép xác định một đạo luật vi hiến, và tuyên bố luật vô hiệu.

Khi không có sự khống chế của các quy định hiến pháp và đạo luật, các tòa án liên bang và bang thường đối chiếu với thông luật; đó là một tuyển tập các quyết định tư pháp, thông tục và quy tắc chung có từ nhiều thế kỷ trước ở nước Anh và vẫn tiếp tục phát triển cho đến nay.

Ở nhiều bang, thông luật tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong tranh chấp hợp đồng, do các nhà làm luật của bang thấy không cần thiết phải thông qua các đạo luật quy định tất cả những trường hợp bất thường về hợp đồng có thể xảy ra.

Các tòa án xét xử các hành vi vi phạm luật và các tranh chấp nảy sinh từ luật. Thông thường, tòa án cần phải diễn giải luật. Để làm điều đó, các tòa án tự ràng buộc bởi cách giải thích luật trước đó của các toà án cùng cấp hoặc cao hơn. Đây được gọi là nguyên tắc "theo quyết định trước", hay đơn giản gọi là tiền lệ. Nó giúp bảo đảm sự nhất quán và có thể lường trước. Nếu phải đối mặt với các tiền lệ hoặc luật án lệ (case law) bất lợi, bên bị thường tìm cách phân biệt sự khác nhau giữa những yếu tố khách quan của vụ việc đang xem xét với các sự kiện đã dẫn đến quyết định trước đó.

Đôi khi các tòa án diễn giải luật không giống nhau.

Ví dụ, Tu chính án Hiến pháp thứ mười lăm có một quy định: "Trong bất kỳ vụ án hình sự nào, không ai bị buộc phải làm chứng chống lại mình". Thỉnh thoảng lại có các vụ án trong đó một cá nhân từ chối trả lời các câu hỏi hoặc khai nhận dưới hình thức khác, trên cơ sở lập luận rằng lời khai đó có thể sẽ được dùng làm cơ sở khởi tố cá nhân này ở một nước khác (không phải ở Hoa Kỳ). Có thể áp dụng điều luật tự buộc tội trong trường hợp này hay không? Toà phúc thẩm địa phận số 2[63] của Hoa Kỳ cho rằng có thể áp dụng, nhưng Tòa phúc thẩm các địa phận số 4[64] và 11[65] lại diễn giải theo cách ngược lại (không được áp dụng). Điều đó có nghĩa là luật pháp khác nhau phụ thuộc nơi mà vụ việc đó phát sinh. Các tòa án cấp cao hơn tìm cách giải quyết sự thiếu nhất quán này.Tòa án tối cao Hoa Kỳ thường chọn việc xét xử các vụ án nếu phán quyết của vụ đó có thể giải quyết sự bất đồng giữa các tòa phúc thẩm. Tiền lệ của Tòa án tối cao sẽ khống chế, hoặc áp dụng cho tất cả các toà án liên bang cấp dưới. Trong vụ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ kiện Balsys, 524 U.S. 666 (1998),[66] Tòa án tối cao đã phán quyết rằng sợ bị truy tố ở nước ngoài là vượt quá phạm vi của Điều luật tự buộc tội. Phán quyết này trở thành luật của toàn nước Mỹ, kể cả ở khu vực Tòa phúc thẩm địa phận số 2. Bất kỳ tòa án liên bang nào sau này gặp phải vấn đề đó đều bị ràng buộc bởi phán quyết của tòa cấp cao trong vụ Balsys. Tương tự, phán quyết của toà phúc thẩm lưu động vùng có giá trị ràng buộc tất cả các tòa án hạt trong khu vực. Tiền lệ cũng được áp dụng ở nhiều hệ thống tòa án bang. Do đó, tiền lệ ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn nội dung diễn giải.

Tóm lại là cũng giống như ở Anh, công việc làm luật của Tòa án Mỹ vẫn dựa trên các Án lệ có điều phức tạp hơn nhiều. Không phải vì lý do là nước Mỹ đông dân và rộng hơn nước Anh hay nước Mỹ phát triển kinh tế hơn, đa dạng văn hóa, sắc tộc hơn, đa dạng trong các quan hệ xã hội hơn mà chính là đặc điểm của Mỹ là nhà nước liên bang,[67] với sự tồn tại song song của hai hệ thống pháp luật, pháp luật của bang và pháp luật của liên bang.

Một đặc điểm nữa của tiền lệ pháp ở Hoa kỳ mà ta có thể nhận thấy là: chính vì thông lệ phát triển mạnh mẽ ở Mỹ cộng với quy trình tranh tụng được đặc biệt coi trọng trong tố tụng và hệ thống pháp luật đồ sộ, phức tạp cho nên ở Hoa kỳ, nghề luật sư phát triển nhất trên thế giới. Luật sư là một ngành nghề thời thượng ở Hoa kỳ, trung bình ở Hoa kỳ cứ 250 người thì có một người là luật (người ta ước rằng số lượng luật sư ở Mỹ tương đương với số lượng nông dân). sư[68] luật sư ở Hoa kỳ chiếm một vị trí quan trọng trong xã hội, trong số các đời tổng thống Hoa kỳ thì có tới 24 tổng thống từng là luật sư và một tổng thống là quan tòa (Harry S. Truman). Nổi tiếng hơn cả là tổng thống Abraham Lincoln, là một minh chứng điển hình cho hiện tương luật sư trở thành chính khách.[69]